Inhaxiô thành Antiôkia, vị tử đạo sống ở thế kỷ II, trên đường đến pháp trường đã viết thư gửi tín hữu Rôma. Ngài gọi Giáo hội là “chủ tịch của bác ái”. (1) Cách gọi như thế mang đậm tính nhân văn. Đó cũng là từ ngữ tốt đẹp mà người ngoài thường dùng để mô tả cộng đoàn được Chúa Giêsu lập nên.
Gần 20 thế kỷ qua, đời sống Giáo hội xoay vần, biến chuyển với nhiều khúc quanh nhưng tinh hoa “bác ái” đã trở nên bất hủ với thời gian, trở thành viên ngọc lục bảo vô giá. Thế nhưng, dưới cái nhìn của một số người muốn phá đổ “lề quê thói cũ”, họ châm biếm Giáo hội, tố giác một Kitô giáo đã phản bội sứ mạng, đòi dẹp bỏ bác ái và chỉ giữ lại công lý. Nhân danh công lý, họ tiến hành những cuộc chiến trên diện rộng nhân loại và hậu quả là máu người vẫn đổ, bất công không được giải quyết và chết chóc lan tràn.
Vậy, đâu là điều hợp lý, đâu là bất cập của quan điểm “nên dẹp bỏ bác ái, chỉ giữ lại công lý”? Nói cách khác, công lý và bác ái có tương quan như thế nào với vấn đề hòa bình, qua bài viết này, chúng ta cùng thử tìm hiểu xem.
- GIỮA NHỮNG NGỔN NGANG THỜI CUỘC
Nếu như thời Trung cổ trôi đi yên bình, tự hào với tháp chuông Gothic cao vút, vòm cuốn Roman mĩ miều, hãnh diện với bộ Tổng luận Thần học uyên thâm của thánh Tôma Aquynô thì bước vào Cận đại, lịch sử Tây phương đánh dấu sự chuyển mình theo hướng tục hóa mạnh mẽ. Trào lưu Ánh sáng đặt dấu chấm hỏi to lớn trên bình diện suy tư, tạo nên luồng sinh khí cách tân, bao trùm và thấm nhập mọi sinh hoạt. Tuy nhiên, nền luân lý cũ với đạo đức mới có nhiều xung đột. Nội bộ phương Tây thêm một lần chứng kiến sự phân rẽ nghiêm trọng, gây nhiều xáo trộn, mất mát, đau thương.
Giữa những hoang mang của một thế giới chuyển mình, chúng ta hãy tập trung để ý bối cảnh Âu Châu vào thế kỷ XIX, bất công trở nên trầm trọng. Hẳn nhiều người còn nhớ Jean Valjean trong cuốn “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Chỉ vì lấy mẩu bánh mỳ cho người cháu đang đói mà ông bị tù, bị hãm hại suốt quãng đời còn lại, không thể ngoi đầu lên được. Biết bao thân phận tột cùng đớn đau, quằn quại rên siết vì bất công. Theo quan điểm của một số triết gia, người nghèo cần sự công lý, không cần bác ái. Họ xứng đáng được hưởng những gì tốt đẹp chứ không cần sự thương hại.
Lần lại triết học Hy Lạp, công lý (Justitia – Latinh; Justice – Anh ngữ) bắt nguồn từ chữ Jus, tiếng Latinh, có nghĩa là luật pháp, quyền lợi. Từ ‘công lý’ chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau hay với cộng đồng được xây dựng trên luật pháp nghiêm minh, bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhau. Như thế, công lý chỉ điều chính đáng, tương xứng với bản chất và quyền con người.
Trong xã hội nhiễu nhương của thời Cận đại, lý thuyết đề cao công lý có nhiều điểm mạnh, trở nên liều thuốc tiên được quần chúng mong đợi và cổ vũ nồng nhiệt. Lý thuyết trên đã chẩn mạch đúng căn bệnh thời đại là đói khát công bằng, đã khơi lên nguồn sáng trong đêm tối đậm đặc khói kim tiền, thu hút người cùng khổ đang bị dồn ép tới mé vực cầm thú…
Nhưng, điểm oái ăm ở đây là việc gạt bỏ chiều kích bác ái. Bác ái Kitô giáo hoàn toàn không có chỗ đứng. Gạt bỏ bác ái là điều không tốt, xã hội sẽ mất đi thế vững vàng. Những biểu hiện gần đây minh chứng việc gạt bỏ trên là đúng hay sai. Nhiều người nhận ra dấu chỉ từ những thảm kịch. Yêu thương bị đánh cắp trong những câu chuyện chưa có hồi kết. Bao người trăn trở tìm câu trả lời đàng sau những điên loạn, vô cảm, ích kỷ. Người lạc quan nhất cũng phải than trời. Có người đổ tội, kết án; có người chỉ biết buông xuôi. Lắm kẻ nhân danh công lý lại hành xử bất công nhất, “cá lớn nuốt cá bé”, “nước mạnh hiếp đáp nước yếu”, “người với người là lang sói của nhau”. Những mảng vỡ liên đới, yêu thương khiến đời người chênh vênh giữa hai bờ sinh tử, chẳng nơi bến đậu, lềnh bềnh trôi trên trùng dương sóng nước mênh mông.
Đã đến lúc nhiều người nhận ra thực trạng trên có phần lỗi do công kích bác ái. Con người đã nhận ra sự thèm thuồng của một thế giới “đi tìm lẽ sống”. Phải có gì đưa con người vươn cao hơn khỏi “túi thịt bầy nhầy” này. Đó chính là cơn khát nguồn cội. Thiên Chúa là tình yêu, là nguồn cội bác ái mà mọi tình yêu phải khởi phát. Con người chỉ thật sự là người khi vượt qua tham sân si. Những con người sống bác ái yêu thương tự bản chất là linh hồn thế giới này khi họ làm cho cuộc sống phong phú nhờ sự ấm áp và sức mạnh tình yêu. (2)
- HAI CỘT TRỤ ĐỂ XÂY DỰNG HÒA BÌNH: CÔNG LÝ VÀ BÁC ÁI
Đời sống Kitô hữu hôm nay đòi ta phải đáp ứng cả công lý và bác ái, đó là hai cột trụ dựng xây hòa bình. Hòa bình trước hết là đặc tính căn bản của Thiên Chúa: “Đức Chúa là sự bình an” (Tp 6,24) và thụ tạo vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa nên luôn khao khát hòa bình. Hòa bình không chỉ đơn giản là vắng bóng chiến tranh nhưng nói lên một cuộc sống viên mãn (x. Mch 2,5) và là một trong những ân huệ cao cả nhất Thiên Chúa ban cho mọi người tùng phục kế hoạch của Ngài: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9) (3)
Tuy nhiên, hành động thế nào cho hài hòa giữa công lý và bác ái để mang lại bình an quả là không đơn giản. Đứng trước nan đề ấy, thiết nghĩ:
Trước hết, phải khẳng định rằng trong khi tình yêu là nền tảng của công lý thì việc dấn thân cho công lý để tạo nên điều kiện sống hạnh phúc phải đi trước các hoạt động bác ái. Không bao giờ thỏa mãn với việc từ thiện, nhất là tại nơi có thể giúp con người bằng con đường công lý, cho phép họ thỏa mãn các nhu cầu bằng cách tham gia vào tiến trình xã hội. Ai gây ra bất công mà chỉ biết bố thí, không sửa đổi bất công thì người ấy không phải yêu thương mà còn xúc phạm phẩm giá đồng loại mình. (4)
Thứ đến, để xác định chính xác mối liên hệ giữa sự dấn thân cho công lý và việc phục vụ cho tình yêu phải chú ý đến hai hoàn cảnh: Một là trật tự công lý là trách nhiệm của chính trị, chứ không phải là tôn giáo. Công lý là mục đích và là tiêu chuẩn nội tại của chính trị. Hai là bác ái vẫn luôn cần thiết trong xã hội công lý nhất. Không có trật tự công lý nào có thể xem bác ái là dư thừa. Ai muốn loại bỏ tình yêu bác ái sẽ đồng thời phủ nhận chính con người. Những người khổ đau luôn cần an ủi và trợ giúp. Những tổ chức bác ái của Giáo hội nhận công tác riêng biệt và lãnh trách nhiệm thích hợp bản chất của mình. (5)
Ở góc nhìn khác, theo bản tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo số 494, hòa bình là kết quả của công lý (x. Is 32,17) được hiểu là tôn trọng sự cân bằng giữa mọi chiều hướng của con người. Việc bảo vệ và phát huy các quyền con người là điều kiện cần thiết để xây dựng một xã hội hòa bình cũng như để phát triển toàn diện đời sống của cá nhân, dân tộc và quốc gia. Hòa bình cũng là kết quả của tình bác ái vì hòa bình đích thực và bền vững là việc của tình yêu hơn là của công lý vì vai trò của công lý chỉ là loại bỏ những trở ngại đặt ra cho hòa bình. (6)
Từ viễn tượng hài hòa trên, bác ái yêu thương không chỉ là giới răn luân lý nữa mà là một chứng nghiệm rất khoa học như một định lý, một công thức mang lại sức khỏe thể xác và hồi phục tinh thần. Yêu thương là căn tính làm nên con người. Yêu thương vừa giả thiết có công lý, vừa vượt trên công lý, công lý “phải được hoàn tất trong bác ái”. (7)
Nếu công lý “tự nó thích hợp cho chúng ta dựa vào mà phân xử giữa con người với nhau mỗi khi đụng chạm đến việc phân phối các thiện ích khách quan sao cho công lý, thì tình yêu mới có khả năng khôi phục con người trở lại chính mình”. (8)
Các mối quan hệ không thể chỉ xử lý bằng công lý: Kinh nghiệm trước đây và bây giờ chứng minh cho thấy chỉ công lý mà thôi thì không đủ, thậm chí có thể đi xa tới mức chối bỏ và hủy hoại công lý nữa… Cũng chính kinh nghiệm lịch sử đã đưa tới câu cách ngôn sau: “Càng đòi công lý, càng nhiều bất công” (Summum jus, summa injuria). (9)
Thật vậy, trong bất cứ lĩnh vực liên vị nào, công lý phải được điều chỉnh thật nhiều bởi tình yêu, vì như thánh Phaolô nói, tình yêu hay bác ái vốn nhẫn nại và nhân hậu, đó là tình yêu mang những đặc điểm của lòng thương xót, là cốt tủy của Tin Mừng và của Kitô giáo (GLHT, 2212).
Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn “thợ làm vườn nho” (Mt 20, 1-16). Một gia chủ mướn nhân công, có người đi làm từ rất sớm, có người đến muộn hơn, cũng có người mãi tận chiều mới được nhận. Đến giờ trả công, bất ngờ xảy ra là người đi sớm cũng được nhận tiền đúng bằng người sau cùng. Có phải là quá bất công hay không? Không, ở đây, chúng ta thấy được khuôn mặt nhân ái của Thiên Chúa. Nơi Người, tình thương vượt trên công lý, luật lệ, quy tắc thông thường. Quả là một tình thương yêu dạt dào mà người đời nhiều lúc không hiểu được.
Do đó, nhiệm vụ chúng ta là phải đảm bảo tương quan hợp lý. Bác ái không dựa trên công lý sẽ tiềm ẩn nhiều hệ lụy, dễ dẫn tới bất ổn. Công lý mà thiếu bác ái là “què quặt”, dễ đưa đến tàn nhẫn, chỉ còn luật lệ hà khắc. Công lý mà triệt tiêu bác ái thì đời sống chẳng có gì đáng kể nữa.
Đây cũng là thách đố với mỗi tín hữu khi nhìn lại căn tính, bản sắc của mình. Giáo hội phải là cộng đoàn bác ái, huynh đệ, dấn thân cho công lý. Dù đang vật vã trải qua những thách đố sống còn tại Tây Phương, Giáo hội vẫn luôn vững bền như đá tảng nếu giữ được công lý, bác ái. Sẽ có hòa bình, sẽ có sự bình an nếu nhân loại sống trong tình yêu và công lý hiển trị.
Ngày hôm nay, một thế giới mới đang đợi sinh ra trên vai những hiện thân Thiên Chúa tình yêu. Người đã vác thập giá leo lên núi Sọ, đã vác những đau thương muôn người mà đi lên.
Ngày hôm nay, Kitô hữu cũng đang dõi bước và thấy Người cùng vác mọi khổ lụy mà đi vào lòng nhân loại mới, cùng Mẹ Têrêxa Calcutta, cùng với những bàn tay đang lau vết cùi trên thân thể lở loét hay chia sẻ từng giọt nước mắt của những người quằn quại trên đường di cư.
Một thế giới khát khao chất men yêu thương và công lý hơn bất cứ cơ cấu tổ chức hoặc lý thuyết thần học nào. Một nhân loại đang hừng hực thèm khát bầu rượu mới. Họ rất cần những chứng tá, hiện thân Thiên Chúa tình yêu. Họ mong muốn tìm “lửa yêu thương” sưởi ấm giá lạnh và điêu linh.
Đó cũng là đích đến mà thần học gia Teilhard de Chardin đề cập: “Một ngày kia khi đã chế ngự được gió, sóng biển, thủy triều, trọng lực, chúng ta sẽ khơi được mạch năng lượng tình yêu. Đó là lúc lịch sử nhân loại lần thứ hai khám phá ra lửa”. (10)
Suy cho cùng, muốn chuyển được lửa mới – ngọn lửa hòa bình và khát vọng – khuôn mặt của chúng ta phải như là một người đang bị treo trên thập giá, cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu. Nhưng cũng chính từ Trái Tim được khai mở đó, mạch năng lượng bác ái và công lý tuôn trào.
Lm. Hạ Trân
(Trích trong “Lời hứa ghép tim”, xuất bản 2020)
______________________________________
Chú thích:
- Maurice Zundel, Với Chúa trong đời thường, TGM TPHCM, 1997, 139
- Cf. Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2012, 990
- Tóm lược HTXHCG, số 492-493.
- Cf. Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2012, 994
- Cf. ĐGH. Bênêđictô, Thông điệp Deus Caritas Est, số 28-29
- Cf. CĐ. Vatican II, Gaudium et Spes, số 78; Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2304
- ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông điệp Ngày thế giới hòa bình năm 2004, 10: AAS 96 (2004), 120
- ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in Misericordia, 14: AAS 72 (1980), 1223
- Ibid, 1216
- Lm. Anrê Trần Cao Tường, “Giáo hội, một cộng đoàn tình yêu”, trong Bản tin Hiệp Thông số 34, trang 35