Ronald Rolheiser (2025-01-27) – Trong hơn một ngàn năm, tín hữu kitô đã không trải nghiệm được niềm vui khi là một gia đình trong Chúa Kitô. Dù trong các cộng đoàn kitô hữu thời tiên khởi đã có những căng thẳng, nhưng đến năm 1054 sự phân ly chính thức mới xuất hiện: thiết lập hai cộng đồng Kitô chính thức, Giáo hội Chính thống Đông phương và Giáo hội Công giáo Tây phương. Rồi với cuộc Kháng cách vào thế kỷ 16, lại có thêm một phân ly trong lòng Giáo hội Tây phương, và Kitô giáo lại phân mảnh hơn nữa. Ngày nay, có hàng trăm phái kitô giáo, nhưng đáng buồn thay, nhiều phái chẳng thân thiện với nhau.
Sự chia rẽ và hiểu lầm, là những chuyện có thể hiểu được, thế nào cũng có, là con người chúng ta phải chấp nhận như vậy. Không có cộng đồng nào mà không có căng thẳng, nên chẳng phải là chuyện tai quái gì khi có lúc các tín hữu kitô không hòa hợp với nhau. Nhưng chuyện tai quái là chúng ta trong các giáo hội tách biệt đã trở nên thoải mái, thậm chí là thiển cận tự mãn, với sự thật rằng chúng ta không hòa hợp nhau, không còn khao khát đến sự toàn vẹn và không còn nhớ nhung nhau.
Trong hầu hết các Giáo hội thời nay gần như không mấy ai quan tâm đến chuyện mình cùng thờ phượng với ai. Chẳng hạn khi dạy các chủng sinh công giáo, tôi cảm nhận có một lãnh đạm nào đó về vấn đề đại kết. Với nhiều chủng sinh thời nay, đây không phải là một mối bận tâm đặc biệt. Không phải chỉ các chủng sinh công giáo nhưng chuyện này cũng đúng với hầu hết trong mọi giáo phái khác.
Nhưng về bản chất dạng lãnh đạm này đi ngược với tinh thần Kitô. Hợp nhất nên một là điều canh cánh trong lòng Chúa Giêsu. Ngài muốn mọi môn đệ ngồi cùng một bàn, như trong dụ ngôn này.
Một bà có mười đồng xu và để lạc mất một đồng. Bà lo lắng quét nhà tìm cho được đồng xu bị mất. Cuối cùng, khi tìm được đồng xu, bà vui sướng mời bạn bạn bè hàng xóm lại, mở bữa tiệc chắc chắn tiêu nhiều tiền hơn giá trị của đồng xu bị mất. (Lc 15, 8-10)
Tại sao lại lo lắng và vui mừng đến vậy khi mất và tìm được một đồng xu mà giá trị có lẽ cũng chẳng bao nhiêu? Nhưng vấn đề không phải là giá trị của đồng xu, mà là một điều khác. Trong văn hóa của bà, chín thì không trọn vẹn, mười mới trọn vẹn. Cả sự lo lắng của bà khi mất đồng xu và niềm vui khi tìm được, đều liên quan đến sự toàn vẹn. Một sự toàn vẹn trong đời bà đã bị phân rã và một loạt mối quan hệ quý báu đã không còn trọn vẹn.
Sự thật, dụ ngôn này có thể được viết lại như thế này. Một người phụ nữ có mười người con. Bà có quan hệ tốt đẹp với chín người con, nhưng có một người con gái ghẻ lạnh. Chín người con kia thường xuyên về nhà ăn cơm chung, nhưng đứa con gái ghẻ lạnh thì không. Bà không chịu nổi tình trạng này, bà mất bình an. Bà muốn đứa con gái ghẻ lạnh hòa nhập với chín người con kia. Bà tìm đủ mọi cách để giảng hòa với cô con gái, rồi một ngày, nhờ một phép lạ vô cùng, chuyện đã thành sự. Cô con gái trở về với gia đình. Cả gia đình lại trọn vẹn, mọi người tề tựu đủ ở bàn ăn. Bà vui mừng khôn xiết, lấy hết tiền tiết kiệm và tổ chức bữa tiệc linh đình để mừng ngày đoàn tụ.
Đức tin Kitô đòi hỏi điều này, như người phụ nữ, chúng ta cần lo lắng, chịu khó thắp đèn tìm kiếm theo nghĩa bóng và tìm cách làm cho Giáo hội trọn vẹn trở lại. Chín không phải là con số toàn vẹn. Và con số những người trong giáo hội riêng của chúng ta cũng giống vậy. Công giáo Rôma không phải là một con số toàn vẹn. Tin Lành cũng không. Các Giáo hội Phái Phúc âm cũng không. Giáo hội Chính Thống cũng không phải là một con số toàn vẹn. Không một phái kitô giáo nào là một con số trọn vẹn. Cùng nhau, chúng ta làm nên một con số kitô giáo toàn vẹn, mà đó vẫn chưa phải là một con số đức tin toàn vẹn.
Và do đó, chúng ta phải bận tâm về những câu hỏi này: Ai không còn đi nhà thờ với chúng ta? Ai không thoải mái khi thờ phượng cùng chúng ta? Làm sao chúng ta có thể thoải mái khi quá nhiều người không còn đồng bàn với chúng ta?
Đáng buồn thay, ngày nay nhiều người trong chúng ta cảm thấy thoải mái trong những gì họ không toàn vẹn. Đôi khi, trong những khoảnh khắc thiếu suy tư, chúng ta còn vui mừng vì chuyện này: “Nhưng những người khác đâu phải là tín hữu kitô đích thực! Không có họ thì tốt hơn, hội thánh sẽ thuần khiết và thành tín hơn nếu không có họ! Chúng ta là những người đích thực còn sót lại!”
Nhưng sự thiếu vắng khao khát toàn vẹn này thỏa hiệp hóa việc chúng ta đi theo Chúa Giêsu và cả sự trưởng thành nhân bản căn bản của chúng ta. Chúng ta là những con người trưởng thành và yêu thương, là những môn đệ thực sự của Chúa Giêsu, chỉ khi nào chúng ta như Chúa Giêsu mà rơi nước mắt vì “những con chiên không thuộc đàn này”. Khi nào chúng ta mới như người phụ nữ mất đồng xu, không thể ngủ yên cho đến khi đã lật tung mọi ngóc ngách trong nhà để tìm kiếm cái bị thất lạc. Chúng ta cũng cần tha thiết tìm kiếm sự toàn vẹn đã mất đi – và có lẽ sẽ không thể bình an cho đến khi tìm được nó.
J.B. Thái Hòa dịch